Ngày 28/9, Chính phủ Ấn Độ đã dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo trắng thường không phải loại basmati, sau khi giảm thuế xuất khẩu gạo đồ từ 20% xuống 10%. Một nhà giao dịch tại Singapore cho rằng quyết định của Ấn Độ đột ngột làm tăng nguồn cung cho thị trường gạo.
Ngày 28/9, Chính phủ Ấn Độ đã dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo trắng thường không phải loại basmati, sau khi giảm thuế xuất khẩu gạo đồ từ 20% xuống 10%. Một nhà giao dịch tại Singapore cho rằng quyết định của Ấn Độ đột ngột làm tăng nguồn cung cho thị trường gạo.
Theo Tổng Công ty Lương thực Ấn Độ, tính đến ngày 1/7, tồn kho gạo của Ấn Độ là 48,51 triệu tấn, mức cao nhất từ trước đến nay và tăng gần 19% so với năm 2023. Bên cạnh đó, Cục khí tượng Ấn Độ dự báo trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 9, thời tiết sẽ thuận lợi cho việc gieo trồng vụ Kharif (là vụ gieo trồng chính, cung cấp 80% tổng sản lượng lúa của Ấn Độ).
Tính đến ngày 8/7, diện tích trồng trọt tại Ấn Độ đạt 6 triệu ha, tăng 19% so với năm 2023. Do đó, trong bối cảnh nguồn cung gạo dự kiến tiếp tục tăng, nhu cầu gạo được đảm bảo, các kho dự trữ quá tải và tác động tiêu cực của lệnh cấm xuất khẩu gạo đến thị trường xuất khẩu, Chính phủ Ấn Độ đang xem xét điều chỉnh lệnh hạn chế xuất khẩu gạo theo hướng: Giảm giá xuất khẩu tối thiểu (MEP) của gạo basmati từ mức 950 USD/tấn xuống 800 – 850 USD/tấn; Giảm thuế xuất khẩu 20% đối với gạo đồ và đưa ra mức thuế cố định đối với các lô hàng xuất khẩu ra nước ngoài.
Ông Bùi Trung Thướng – Tham tán Thương mại Việt Nam tại Ấn Độ – thông tin, ngày 18/7 vừa qua, chúng tôi đã tháp từng với Đại sứ Việt Nam và làm việc với Tổng cục trưởng Tổng cục Ngoại Thương Ấn Độ và họ cho biết sẽ tổng hợp lại sản lượng gieo trồng và sản thu hoạch lúa gạo trong thời gian tới, nếu đảm bảo được nguồn cung lương thực thì Chính phủ sẽ thay đổi chính sách lúa gạo của Ấn Độ. Đây là một động thái hết sức quan trọng. Hiện, thị trường này đang xuất khẩu hơn 40% tổng lượng lúa gạo của toàn cầu. Một động thái của thị trường này sẽ ảnh hưởng đến thị trường lúa gạo toàn cầu, các nước xuất khẩu gạo, trong đó có Việt Nam.
Tại thị trường trong nước ngày 29/7, trên thị trường lúa, giá hôm nay điều chỉnh tăng nhẹ với một số mặt hàng so với ngày hôm qua: Lúa IR 50404 giá dao động quanh mốc 6.800 – 7.000 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 ở mức giá 7.000 – 7.300 đồng/kg; lúa OM 5451 giá ở mức 6.900 – 7.100 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; lúa OM 18 có giá 7.200 – 7.300 đồng/kg; lúa OM 380 dao động từ 6.800 – 7.000 đồng/kg; lúa Nhật ở mức 7.800 – 8.000 đồng/kg; Nàng Hoa 9 giá 6.900 – 7.000 đồng/kg; lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo, giá gạo ổn định so với ngày hôm qua. Cụ thể, gạo nguyên liệu IR 504 hè thu ở mức 10.700 – 10.800 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 duy trì ở mức 12.500 – 12.600 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ghi nhận không có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 100% tấm ở mức 448 USD; gạo tiêu chuẩn 5% tấm giữ vững ở mức 559 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 535 USD/tấn.
Việc không ghi nhận sự điều chỉnh giá gạo xuất khẩu tại thời điểm này giúp doanh nghiệp có sự chủ động hơn và dễ dàng thu mua lúa. Dự báo, cho thấy giá gạo sẽ hồi phục trong thời gian tới khi nhu cầu nhập khẩu gạo vào dịp cuối năm thường tăng từ các khách hàng truyền thống của Việt Nam.
Theo Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 6 tháng đầu năm 2024, Việt Nam đã xuất khẩu gần 4,7 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch gần 3 tỉ USD, tăng 10,4% về lượng và tăng đến 32% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023, nhờ giá xuất khẩu duy trì ở mức cao.
Mặt bằng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tăng kể từ ngày 20/7/2023, khi Ấn Độ – nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, công bố lệnh cấm xuất khẩu gạo trắng 5% tấm để đảm bảo an ninh lương thực và bình ổn giá gạo nội địa. Giá gạo 5% tấm của Việt Nam hiện tại cao hơn cùng kỳ năm trước khoảng 60 USD/tấn; còn sản lượng xuất khẩu tăng mạnh ngay từ đầu năm và đạt con số cao kỷ lục.
Mới đây, theo báo cáo của Thương vụ Đại sứ quán Việt Nam tại Singapore 6 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Singapore đạt 73,40 triệu Đô la Singapore (SGD) (hơn 54,6 triệu USD), tăng 54,67% so với cùng kỳ năm 2023. Chiếm 32,69% thị phần, Việt Nam vẫn giữ vị trí là quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất sang Singapore trong 6 tháng đầu năm 2024. Đáng chú ý, việc tận dụng cơ hội từ lệnh cấm xuất khẩu các loại gạo ngoài basmati của Ấn Độ đã đưa gạo tẻ trắng Việt Nam chiếm thị phần lớn nhất tại Singapore (chiếm 48,62%).
Hơn một năm sau lệnh cấm xuất khẩu gạo của Ấn Độ, điều các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam quan tâm lúc này đó là nếu Ấn Độ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo thì hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng.
Theo GS-TS Bùi Chí Bửu – Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, nếu Ấn Độ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo sẽ khiến nguồn cung trên thị trường thế giới tăng nên giá sẽ giảm. Tuy nhiên, trong trường hợp đó khả năng họ sẽ xả kho dự trữ và bán gạo cho các thị trường truyền thống như châu Phi, Trung Đông, nên không ảnh hưởng nhiều đến các thị trường truyền thống của Việt Nam. Tuy nhiên, đây là giai đoạn nhạy cảm, các doanh nghiệp cũng không nên chủ quan.
Còn theo ông Nguyễn Như Cường – Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Ấn Độ là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 40% sản lượng. Do đó, tất cả các động thái, quyết định liên quan đến xuất khẩu gạo của nước này đều có tác động đến tất cả các nước xuất khẩu gạo, trong đó có Việt Nam và Thái Lan, đây là những nước nước xuất khẩu gạo lớn.
Theo đó, ảnh hưởng đầu tiên đó là nhu cầu sản lượng nhập gạo của các đối tác của Việt Nam. Khi các đối tác có thêm lựa chọn từ nhà cung cấp Ấn Độ, gạo của Việt Nam sẽ bị cạnh tranh, có thể sản lượng sẽ ít đi. Tác động thứ hai đó là giảm giá gạo xuất khẩu.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Như Cường, qua theo dõi tình hình hiện nay, nhu cầu gạo của thế giới vẫn cao và sản lượng không phải là quá dư thừa nên nếu Ấn Độ có gỡ bỏ lệnh hạn chế xuất khẩu gạo trắng thì cũng ít ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam.
https://congthuong.vn/lenh-cam-xuat-khau-gao-cua-an-do-nhung-dong-thai-moi-nhat-335429.html
Giá lúa gạo ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tuần qua có sự biến động giảm khá. Gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng giảm cùng xu hướng giá gạo xuất khẩu của một số nước châu Á giảm mạnh sau khi Ấn Độ nới lỏng các hạn chế xuất khẩu gạo.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá lúa thường tại ruộng tuần qua cao nhất là 7.350 đồng/kg, giá bình quân là 6.736 đồng/kg, giảm 507 đồng/kg. Giá lúa thường tại kho giảm trung bình 575 đồng/kg, ở mức 8.342 đồng/kg; giá cao nhất là 8.950 đồng/kg.
Giá các mặt hàng gạo cũng có sự điều chỉnh giảm. Theo đó, gạo 5% tấm có giá cao nhất 13.500 đồng/kg, giá bình quân 12.950 đồng/kg, giảm 379 đồng/kg. Gạo 15% tấm có giá cao nhất 13.100 đồng/kg, giá bình quân 12.733 đồng/kg, giảm 283 đồng/kg. Gạo 25% tấm có giá cao nhất 12.700 đồng/kg, giá bình quân 12.367 đồng/kg, giảm 275 đồng/kg.
Giá gạo xát trắng loại 1 giảm 560 đồng/kg, giá trung bình là 13.570 đồng/kg. Gạo lứt loại 1 giảm 317 đồng/kg, trung bình là 11.300 đồng/kg.
Tại An Giang, theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, một số loại lúa có sự biến động mạnh như: IR 50404 từ 6.800-7.000 đồng/kg, giảm 600-700 đồng/kg; lúa OM 5451 có giá từ 7.200-7.400 đồng/kg, giảm 200 đồng/kg; OM 380 dao động 7.200-7.300 đồng/kg...
Nếp Long An IR 4625 (khô) ổn định từ 9.500-9.700 đồng/kg; nếp Long An 3 tháng (khô) 9.800-10.000 đồng/kg.Với mặt hàng gạo trên thị trường bán lẻ tại An Giang, gạo thường có giá từ 15.000-16.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài từ 20.000 - 22.000 đồng/kg; gạo Jasmine từ 18.000-20.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg, gạo Nàng Hoa 20.000 đồng/kg...
Hiện giá gạo nguyên liệu IR 504 Hè Thu ở mức 10.150-10.250 đồng/kg. Trong khi đó, gạo thành phẩm IR 504 ở mức 12.500-12.600 đồng/kg.
Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm các loại dao động trong khoảng từ 5.900-9.600 đồng/kg. Hiện, giá tấm OM 5451 đang ở mức 9.500-9.600 đồng/kg; giá cám khô lên mức 5.900-6.000 đồng/kg.Về xuất khẩu, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, gạo 5% ở mức giá 542 USD/tấn, giảm khoảng 20 USD/ tấn so với tuần trước; gạo 25% tấm ở mức 512 USD/tấn; gạo 100% tấm ở mức 443 USD/tấn.
Cùng với đó, giá gạo xuất khẩu của một số nước châu Á giảm mạnh trong tuần qua sau khi Ấn Độ nới lỏng các hạn chế xuất khẩu gạo làm gia tăng sự cạnh tranh trong khu vực. Ấn Độ là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Ngày 28/9, Chính phủ Ấn Độ đã dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo trắng thường không phải loại basmati, sau khi giảm thuế xuất khẩu gạo đồ từ 20% xuống 10%. Một nhà giao dịch tại Singapore cho rằng quyết định của Ấn Độ đột ngột làm tăng nguồn cung cho thị trường gạo.
Gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được báo giá ở mức 494-498 USD/tấn trong tuần này, mức thấp nhất kể từ ngày 9/11/2023. Tuần trước, các nhà giao dịch chào giá gạo ở mức 528-534 USD/tấn. Gạo trắng 5% tấm của Ấn Độ được báo giá ở mức 490-495 USD/tấn trong tuần này.
Chủ tịch Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Ấn Độ, B.V. Krishna Rao, cho biết, giá gạo đã giảm mạnh nhờ việc giảm thuế, nhưng người mua vẫn đang chờ đợi thị trường bình ổn.
Trong khi đó, giá gạo 5% tấm của Thái Lan giảm xuống còn 510-515 USD/tấn so với mức 550-560 USD/tấn của tuần trước, mức thấp nhất kể từ tháng 6/2023, do biến động của đồng baht và việc Ấn Độ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo trắng thường không phải loại basmati.
Thị trường nông sản Mỹ cho thấy, giá lúa mỳ kỳ hạn tại Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) phiên 4/10 giảm phiên thứ hai, do các nhà giao dịch thận trọng sau khi tình trạng hạn hán ở nước sản xuất lúa mỳ hàng đầu là Nga đã đẩy giá lúa mỳ lên mức cao nhất 3 tháng rưỡi vào đầu tuần này.
Giá ngô kỳ hạn cũng giảm sau khi đạt mức cao nhất 3 tháng trong phiên 25/9, trong bối cảnh xung đột ở Trung Đông khiến giá dầu tăng, thúc đẩy hoạt động sản xuất ethanol từ thực vật. Giá đậu tương giảm do dự báo mưa ở nước sản xuất hàng đầu là Brazil đã cải thiện những dự báo về nguồn cung. Giá lúa mỳ tại CBOT giảm 0,8%, xuống 5,99 USD/bushel, sau khi đạt mức 6,17 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 14/6. Giá lúa mỳ vẫn tăng khoảng 3,4% trong tuần này.
Giá ngô tại CBOT giảm 0,6%, xuống 4,25 USD/bushel, sau khi đạt mức 4,34 USD/bushel trong phiên 25/9, cao nhất kể từ ngày 28/6. Giá ngô tăng 1,8% trong cả tuần. Còn giá đậu tương ổn định ở mức 10,45 USD/bushel và giảm 1,9% trong tuần (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Trong những tháng gần đây, cả ba loại nông sản này đều giảm xuống mức thấp nhất trong bốn năm nhưng đã phục hồi khi các ngân hàng trung ương hạ lãi suất, đồng USD xuống giá và điều kiện thời tiết bất lợi đe dọa nguồn cung.
Thị trường càphê thế giới cho thấy, giá càphê thế giới và giá càphê tại thị trường trong nước cùng tăng mạnh trong phiên 5/10. Trên thế giới, giá càphê tại hai sàn London và New York đồng loạt tăng trở lại.
Giá càphê Robusta trên sàn London giao tháng 11/2024 tăng mạnh 146 USD (2,97%), lên mức 5.067 USD/tấn và giao tháng 1/2025 tăng 139 USD (2,94%), lên 4.859 USD/tấn. Còn trên sàn New York, giá càphê Arabica giao tháng 12/2024 tăng tới 5,3 xu Mỹ (2,1%), lên 257,35 xu/lb và giao tháng 3/2025 tăng 5,15 xu (2,06%), lên 255,65 xu/lb (1 lb = 0,4535 kg).
Giá càphê thế giới đã tăng mạnh trở lại sau những phiên lao dốc trước đó, nhưng phục hồi chưa đến 30% mức giảm trong hai phiên trước. Đồng USD tăng, việc lùi thời hạn áp dụng quy định chống phá rừng ở châu Âu là những nguyên nhân chính đang khiến giá càphê giảm mạnh.
Ngoài ra, càphê chịu thêm sức ép về giá khi đồng real của Brazil giảm xuống mức thấp nhất trong 1 tuần vào ngày 3/10. Đồng real yếu khiến các nhà sản xuất cà phê Brazil đẩy mạnh xuất khẩu.
Ở trong nước, thị trường cà phê quay đầu hồi phục so với phiên trước. Cụ thể, tại tỉnh Lâm Đồng, giá càphê ở 3 huyện Di Linh, Bảo Lộc và Lâm Hà cùng ở mức 114.800 đ/kg.
Tại Đắk Lắk, giá thu mua càphê tại huyện Cư M'gar ở mức 115.700 đồng/kg, còn tại huyện Ea H'leo và Buôn Hồ ở mức 115.600 đồng/kg./.
Sự trở lại của nguồn gạo từ Ấn Độ khiến thị trường gạo các quốc gia như Thái Lan, Việt Nam tuần vừa qua đã có sự điều chỉnh giá nhẹ để cạnh tranh, điều này cũng làm giảm nhiệt giá gạo trên toàn cầu.