Chính Sách Dân Số Việt Nam 2022

Chính Sách Dân Số Việt Nam 2022

Sớm nhận thức tác động của dân số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và hạnh phúc của nhân dân, ngày 26/12/1961, Hội đồng Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định 216/CP về việc sinh đẻ có hướng dẫn với mục đích: “Vì sức khoẻ của người mẹ, vì hạnh phúc và hoà thuận của gia đình, vì để cho việc nuôi dạy con cái được chu đáo”. Sáu mươi năm qua (1961-2021), lịch sử chính sách Dân số của Việt Nam đã trải qua một chặng đường dài, công tác dân số của nước ta đã có nhiều kinh nghiệm. Đây là thời điểm thích hợp để có thể đánh giá những kết quả đạt được, lý ‎giải nguyên nhân, phát hiện những tác động nhiều mặt của chính sách này, đồng thời đúc rút những bài học kinh nghiệm từ quá khứ góp phần thực hiện thắng lợi chính sách dân số hiện nay.

Sớm nhận thức tác động của dân số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và hạnh phúc của nhân dân, ngày 26/12/1961, Hội đồng Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định 216/CP về việc sinh đẻ có hướng dẫn với mục đích: “Vì sức khoẻ của người mẹ, vì hạnh phúc và hoà thuận của gia đình, vì để cho việc nuôi dạy con cái được chu đáo”. Sáu mươi năm qua (1961-2021), lịch sử chính sách Dân số của Việt Nam đã trải qua một chặng đường dài, công tác dân số của nước ta đã có nhiều kinh nghiệm. Đây là thời điểm thích hợp để có thể đánh giá những kết quả đạt được, lý ‎giải nguyên nhân, phát hiện những tác động nhiều mặt của chính sách này, đồng thời đúc rút những bài học kinh nghiệm từ quá khứ góp phần thực hiện thắng lợi chính sách dân số hiện nay.

Ưu đãi về miễn, giảm tiền thuế thu nhập doanh nghiệp

Bên cạnh đó, nếu thu nhập được xếp vào các lĩnh vực nêu trên, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có thể được miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo theo khoản 1 Điều 14 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014).

Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 18 Luật Hỗ trợ DNNVV 2017, Nhà đầu tư khởi nghiệp sáng tạo được miễn, giảm thuế thu nhập có thời hạn từ khoản đầu tư vào startups theo quy định. Tuy nhiên hiện nay, pháp luật  vẫn chưa cụ thể hóa điều này nên lợi ích thực tế vẫn còn hạn chế.

Với chính sách ưu đãi thuế cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, mặc dù trong ngắn hạn sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách, nhưng về dài hạn sẽ giúp các startups nâng cao năng lực tích lũy và cạnh tranh qua đó thúc đẩy kinh tế phát triển và tạo ra “hiệu ứng lan tỏa” khác cho nền kinh tế.

Ưu đãi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp

Hiện thuế thu nhập doanh nghiệp là sắc thuế trực tiếp đánh vào tài chính của startups nên sự hỗ trợ của Nhà nước chủ yếu là sắc thuế này.

Căn cứ theo khoản 1 Điều 13 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014), doanh nghiệp khởi nghiệp có thể được áp dụng thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm tiêu biểu với các lĩnh vực:

Phát triển chương trình vay vốn

Các quốc gia EU có chính sách khoản vay khá đặc biệt, giúp giải quyết các rào cản thị trường để startups tiếp cận nguồn vốn lớn với chi phí rẻ hơn; qua việc bảo lãnh các doanh nghiệp khởi nghiệp để họ vay vốn dễ dàng hơn tại ngân hàng; gồm ba mô hình chính:

Tại Malaysia, mỗi bộ, ngành đều có những chương trình vay vốn riêng cho doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực thuộc quản lý của bộ, ngành đó, chẳng hạn như:

Còn nước ta, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam vừa ký Quyết định số 897/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình “Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp” giai đoạn 2022 – 2030 với nhiều nội dung như tập huấn, bồi dưỡng kiến thức nền tảng cho nhà sáng lập, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp; kênh phân phối và tiêu thụ sản phẩm,…

Đáng chú ý tại Quyết định này, Chính phủ còn giúp doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn, hỗ trợ tài chính thông qua những chương trình, chính sách ưu đãi; xây dựng các sàn giao dịch ý tưởng nhằm kết nối thanh niên với các quỹ đầu tư.

Tóm lại, nguồn vốn kinh doanh là huyết mạch của các doanh nghiệp; đối với startups lại càng quan trọng hơn; vì thế, việc tận dụng hiệu quả các chính sách hỗ trợ của Nhà nước sẽ giúp công ty tối ưu chi phí và phát triển hơn.

Trong nền hành chính nhà nước, CSC là bộ phận nền tảng trọng yếu của thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác của nền hành chính như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - công chức; tài chính công.

Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì CSC là công cụ tiền đề, không thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp luật, kế hoạch, phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao vai trò của CSC như là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói riêng và đẩy mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi mới nói chung. Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao và phức tạp của quản lý nhà nước thì hoạt động hoạch định và thực thi CSC ở nước ta đang ở trong bối cảnh nào và đặt ra những vấn đề gì cần giải quyết?

Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định CSC đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu, cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã hội, quân sự, ngoại giao…). Một số CSC quan trọng đã được luận chứng khoa học hơn, bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lập và hoàn thiện được một hệ thống CSC khá phù hợp, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được ban hành đã đáp ứng được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu như: chính sách kích cầu, chính sách điều chỉnh tiền lương cơ bản, chính sách hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi suất tối đa cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam, chính sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam của cá nhân khi xuất nhập cảnh, chính sách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân, chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp… Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng của nền kinh tế trong điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như những phản ứng kịp thời của nhà nước trước những biến động lớn của kinh tế toàn cầu và khu vực.

Bên cạnh đó, việc tổ chức thực thi CSC cũng đạt được những yêu cầu cơ bản như: kịp thời, đồng bộ, hiệu quả trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, ngành. Một số địa phương đã chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong triển khai thực thi chính sách cho phù hợp với đặc điểm của mình, có tính đến đặc điểm của đối tượng thụ hưởng chính sách. Công tác tổng kết thực tiễn thi hành chính sách cũng đã bắt đầu được chú ý hơn; một số chính sách được sơ kết, tổng kết khá công phu, có quy trình khoa học và có giá trị tham khảo lớn. Nhìn tổng thể, việc thực thi chính sách đã đi vào nề nếp, nghiêm minh với không ít kinh nghiệm bổ ích đã được đúc rút từ thực tiễn.

Hoạt động phân tích, đánh giá CSC đã bắt đầu được quan tâm với tư cách là một trong những công đoạn quan trọng của quy trình CSC. Tuy chưa nhiều và chưa thật sự phát huy hết hiệu quả nhưng một số cơ quan nhà nước, viện nghiên cứu và cá nhân có những sản phẩm phân tích, đánh giá CSC rất tốt, giúp  cho việc ban hành, sửa đổi nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách hiện hành theo hướng khả thi, hiệu quả, mang lại lợi ích cho xã hội. Đặc biệt, vai trò của một số tổ chức phi nhà nước trong việc phân tích, đánh giá CSC được dư luận xã hội thừa nhận về chất lượng, về chính kiến và ảnh hưởng của chúng như: Viện nghiên cứu, tư vấn chính sách, pháp luật và phát triển (PLD) thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA)… Nhờ đó, từ chỗ là công việc khá lạ lẫm trong quy trình chính sách, thì đến nay hoạt động phân tích, đánh giá CSC đã bắt đầu được quan tâm nhiều hơn không chỉ từ phía các cơ quan nhà nước mà còn là của xã hội.

Mặc dù vậy, khi đánh giá về hạn chế, khuyết điểm trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đảng ta nhận định: "Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu… Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu…"(1). Có thể thấy những hạn chế, bất cập đó trên các khía cạnh chủ yếu sau đây:

- Lý luận về mô hình phát triển chung còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ đã và đang tác động không nhỏ tới lý luận và thực tiễn của nhiều lĩnh vực vĩ mô như: về mối quan hệ giữa cải cách hệ thống chính trị với đổi mới kinh tế, về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, về tăng trưởng đi đôi với thực hiện công bằng xã hội trong từng bước và trong cả quá trình phát triển, về bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững… Trong đó, còn nhiều vấn đề đặt ra rất bức xúc nhưng chưa được kiến giải thấu đáo ở phương diện lý luận hay nói cách khác, lý luận còn bất lực trước nhiều vấn đề thực tế mà cội rễ của nó là tư duy chưa thật sự bắt kịp được yêu cầu ngày càng cao, phức hợp của công cuộc đổi mới.

Thực tiễn của Việt Nam, của từng địa phương, từng ngành vẫn chưa thật sự được quan tâm như là một tiền đề, điều kiện tối quan trọng để xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện chính sách. Vì thế, vẫn còn không ít những chính sách xa với thực tế, gây khó khăn khi tổ chức thực hiện và không được dư luận thật sự đồng tình. Đặc biệt, những căn bệnh chủ quan, duy ý chí, chạy theo thành tích, thích "đánh bóng hình ảnh", lợi ích cục bộ của từng bộ, ngành hoặc lợi ích của một số nhóm trong xã hội vẫn tồn tại dai dẳng đã gây những hậu quả không nhỏ cho xã hội, cho từng ngành và địa phương từ hoạt động hoạch định cho tới tổ chức thực thi CSC.

Quy trình hoạch định CSC tuy đã được nghiên cứu cải tiến theo hướng hiện đại, tiện lợi, dân chủ nhưng nhìn tổng thể vẫn theo cách "có một không hai" (theo dẫn chứng của Giáo sư Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu kinh tế Nhật Bản)(2). Theo đó, có thể chỉ ra những bất cập chủ yếu như:

- Làm chính sách vẫn đang được coi là đặc quyền của các cơ quan nhà nước, của nhà nước nói chung mà chưa phải là công việc chung của xã hội, của các doanh nghiệp, của các nhóm lợi ích trong xã hội.

- Có quá nhiều chính sách của các bộ, ngành trong khi chúng được xây dựng phân tán; thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành một cách hợp lý và có cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm đích thực nên chất lượng không cao. Trong khi đó, hầu hết các chiến lược hay chính sách đều thể hiện sự liệt kê mục tiêu, quan điểm định hướng, yêu cầu mà thiếu hẳn những kế hoạch hành động cụ thể hay các biện pháp cần có.

- Chưa hình thành được những kênh thông tin chính thống cần thiết giữa nhà nước với xã hội trong việc xây dựng, ban hành, thực thi CSC để phúc đáp những lợi ích cơ bản của đôi bên.

- Vai trò của các cơ quan thẩm định, phê duyệt chính sách chưa được phát huy nên đã tạo những kẽ hở đáng kể cho việc ra đời một số chính sách có chất lượng chưa cao, thậm chí xã hội không đồng tình.

- Hiện tượng "vận động chính sách" (lobby) tuy chưa được chính thức thừa nhận ở phương diện luật pháp nhưng đã xuất hiện dưới nhiều hình thức với những biểu hiện tiêu cực khác nhau làm ảnh hưởng đến tính công bằng của chính sách, gây những nguy hại nhất định cho xã hội lại chưa được quan tâm nghiên cứu để có phương hướng và biện pháp xử lý có hiệu lực, hiệu quả.

Trong lĩnh vực tổ chức thực thi CSC bộc lộ những hạn chế, bất cập chủ yếu về tính kịp thời, đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện, nhất là ở một số chính sách về kinh tế - xã hội và môi trường trong thời gian gần đây. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, thuyết phục, vận động nhằm định hướng dư luận trong quá trình thực hiện chính sách chậm được đổi mới về hình thức, phương pháp, nội dung; còn nhiều biểu hiện hình thức, "làm cho có"… nên kém hiệu quả. Công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra chưa kịp thời, thường xuyên và thiếu thực chất. Việc xử lý khiếu nại, tố cáo các vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện còn chậm, nhiều trường hợp thiếu công bằng, nghiêm minh đã ảnh hưởng xấu đến thực hiện CSC. Công tác tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm cho hoạch định và thực thi chính sách chưa được coi trọng, chưa làm thường xuyên, kịp thời. Trong một thời gian dài, hoạt động này chưa thật sự được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm, coi trọng do sự bất cập trong tư duy làm chính sách. Điều này không chỉ đúng với quy trình chính sách của chính quyền địa phương mà còn của Chính phủ, các bộ, ngành. Trong những năm gần đây, thực tiễn cho thấy xã hội đã bắt đầu ý thức rõ hơn về vai trò quan trọng của hoạt động này trong tổng thể quy trình chính sách. Tuy vậy, xét về tổng thể, hoạt động phân tích, đánh giá CSC còn ở trong tình trạng lẻ tẻ, rời rạc, hình thức; không có nhiều những sản phẩm nghiên cứu có tầm cỡ về nội dung, chất lượng và quy mô để có thể tạo ra được những đột phá về chính sách trong từng lĩnh vực. Vì những lý do rất khác nhau mà những kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá CSC được ứng dụng vào thực tế một cách hữu ích chưa nhiều, gây lãng phí, thiệt thòi cho toàn bộ quy trình CSC hoặc từng công đoạn trong đó. Việc tiếp thu các kết quả phân tích, đánh giá CSC từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn rất dè dặt, cứng nhắc; thậm chí có những trường hợp tỏ thái độ phân biệt, phê phán, "chụp mũ"… Số lượng các cơ quan hoặc cá nhân nghiên cứu về CSC chưa đủ để đáp ứng nhu cầu thực tế của lĩnh vực này, trong đó bản thân họ cũng gặp những khó khăn nhất định về khung pháp lý và phản ứng của một số cơ quan nhà nước.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động hoạch định và thực thi CSC ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo, cần đặt trọng tâm vào các vấn đề sau:

- Tiếp tục nâng cao nhận thức để trên cơ sở đó mở rộng sự tham dự một cách có hiệu quả của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhất là của cá nhân người lãnh đạo, quản lý vào quá trình hoạch định và thực thi CSC. Nói cách khác, làm cho CSC từ chỗ chỉ là chức năng đặc quyền của các cơ quan nhà nước thành mối quan tâm chung và trách nhiệm của toàn xã hội.

- Đổi mới quy trình hoạch định CSC theo hướng dân chủ, huy động sự tham gia đắc lực của toàn xã hội, nhất là của đội ngũ chuyên gia vào xây dựng chính sách. Từng bước tạo lập một quy trình làm chính sách gọn, tiện lợi nhưng khoa học, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện cơ chế thẩm định và phê duyệt chính sách, nhất là với những chính sách lớn, quan trọng, có tác động trực tiếp và lâu dài tới lợi ích chung của toàn xã hội.

- Chấn chỉnh để nâng cao tính kịp thời, đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả của quá trình tổ chức thực thi CSC. Đặc biệt, coi trọng tính tiên phong của các khâu tuyên truyền, vận động, định hướng dư luận xã hội trong quy trình thực hiện chính sách. Tăng cường công tác đôn đốc, kiểm tra, giám sát về tiến độ, hiệu quả thực hiện CSC. Phát hiện và xử lý kịp thời, công bằng, minh bạch các khiếu kiện, vi phạm pháp luật nảy sinh.

- Coi trọng hoạt động tổng kết thực tiễn về hoạch định, thực thi CSC theo hướng thường xuyên, thiết thực; tránh phô trương, hình thức, lãng phí để rút kinh nghiệm cần thiết, bổ ích cho các hoạt động đó.

- Đề cao vai trò của hoạt động phân tích, đánh giá CSC như là một điều kiện tối quan trọng để từng bước cải thiện chất lượng của quy trình hoạch định và thực thi chính sách. Có cơ chế ràng buộc các cơ quan nhà nước trong việc phản hồi ý kiến, tiếp nhận các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá CSC n

TS. Vũ Anh Tuấn - Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III

--------------------------------------

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.171-172.

(2) http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/vn-co-quy-trinh-lam-chinh-sach-co-mot-khong-hai.

Bài đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước Số 6/2012

Hằng năm, Việt Nam có hàng trăm ngàn người lao động đi làm việc tại nước ngoài. Ảnh minh hoạ.

Người lao động di trú ở nước ngoài

Là một bộ phận công dân Việt Nam ở nước ngoài, người LĐDT được hiểu là một cá nhân hay một nhóm di chuyển tự do địa bàn lao động, cư trú không theo kế hoạch của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và đã, đang, sẽ làm một công việc có hưởng lương tại một quốc gia mà người đó không phải là công dân. Đội ngũ lao động này được phân thành hai dạng:

Một là, lao động hợp pháp, bao gồm: nhân công di trú, thường trú không thường xuyên tại vùng biên với một nước láng giềng; người làm những công việc có tính chất mùa vụ và chỉ làm một thời gian nhất định trong một năm; người đi biển được tuyển dụng làm việc trên một tàu đăng ký ở một quốc gia hay nhân công làm việc tại một công trình trên biển hoặc lưu động theo dự án trên biển mà họ không phải là công dân ở nước sở tại và hưởng lương ở quốc gia sở tại đó; nhân công phải di chuyển lao động do tính chất công việc của họ tại một hoặc nhiều nước khác nhau trong những khoảng thời gian nhất định; nhân công lao động chuyên dụng được người sử dụng lao động của mình cử đến quốc gia nơi có việc làm trong một khoảng thời gian hạn chế nhất định để thực hiện một công việc hoặc một nhiệm vụ cụ thể mang tính chuyên môn kỹ thuật; nhân công tự chủ là những người tham gia làm một công việc có hưởng lương nhưng không phải dưới dạng hợp đồng lao động mà dưới tư cách độc lập hoặc cùng với các thành viên gia đình của mình, nhưng hông trái với pháp luật quốc gia có việc làm đó hoặc phải tuân thủ theo các điều ước quốc tế.

Hai là, lao động bất hợp pháp: là những người LĐDT không có giấy tờ pháp lý, nên họ không được trao các quyền được một nước cho phép vào, ở lại và làm một công việc được trả lương tại nước đó.

Do đó, đối tượng sau không được coi là người LĐDT ở nước ngoài: những người được cử hoặc tuyển dụng bởi các cơ quan và tổ chức quốc tế, hay được cử hoặc được tuyển dụng bởi một nước này sang một nước khác (do được điều chỉnh bởi các hiệp định hay công ước quốc tế cụ thể), để tham gia các chương trình phát triển hay các chương trình hợp tác; nhà đầu tư, người tị nạn và không có quốc tịch,  sinh viên và học viên, người đi biển hay người làm việc trên các công trình trên biển không được tiếp nhận để tham gia vào một công việc có hưởng lương ở quốc gia sở tại.

Từ năm 2022, khi dịch bệnh COVID-19 được kiểm soát, số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài tăng trở lại. Trong 11 tháng đầu năm 2023, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là 146.156 lao động (50.561 lao động nữ) đạt 121,8% kế hoạch năm 2023. Họ chủ yếu làm trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ. Hiện nay, ngoài LĐDT “chui”, bất hợp pháp, Việt Nam có khoảng 650.000 người LĐDT theo hợp đồng ở nước ngoài. LĐDT ở Hàn Quốc có mức lương, thu nhập  cao nhất, khoảng 1.600 đến 2.000 đô-la Mỹ/người/tháng; ở Nhật Bản là 1.200 đến 1.500 đô-la Mỹ/người/tháng; tại Đài Loan (Trung Quốc) và  một số nước châu Âu là khoảng 800 đến 1.200 đô-la Mỹ/ngươi/tháng. Tại thị trường Trung Đông và Ma-lai-xi-a, nếu có nghề, thu nhập của họ từ khoảng 600 - 1.000 đô-la Mỹ/người/tháng; còn lao động phổ thông, không nghề nghiệp có thu nhập 400 - 600 đô-la Mỹ/người/tháng.

Người lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài được đánh giá cao cao vì nhanh nhẹn, thông minh. Việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng không chỉ giúp người lao động, nhất là lao động ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, cải thiện được cuộc sống bản thân và gia đình, còn góp phần phát triển kinh tế -  xã hội địa phương.

Bảo hộ công dân đối với lao động di trú Việt Nam

Hiến pháp Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ”. Trong những năm qua, Nhà nước luôn thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong công tác BHCD, đặc biệt là đối với số LĐDT tại nước ngoài.

Về mặt pháp lý, nhiều văn bản pháp luật được ban hành, sửa đổi, bổ sung làm cơ sở pháp lý cho công tác BHCD đối với người LĐDT ở nước ngoài.

Luật Quốc tịch Việt Nam ghi rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài. Các cơ quan nhà nước ở trong nước, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm thi hành mọi biện pháp cần thiết, phù hợp với pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế để thực hiện sự bảo hộ đó”.  Mới đây, căn cứ theo Luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng số 69/2020/QH14 năm 2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 225/NQ-CP ngày 31-12-2023 về kế hoạch nhằm cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 12-12-2022 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong tình hình mới.

Về trách nhiệm BHCD, Việt Nam đã thành lập ban quản lý lao động ở 6 quốc gia và vùng lãnh thổ có đông lao động Việt Nam đang làm việc, gồm: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Ma-lai-xi-a, Các tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất (UAE), Ả-rập Xê-út. Đối với các nước khác, cơ quan đại diện ngoại giao sẽ thay mặt Nhà nước quản lý và hỗ trợ giải quyết các vấn đề liên quan tới người lao động Việt Nam. Các cơ quan này đã phát huy có hiệu quả vai trò, trách nhiệm của mình đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài nhất là trong những trường hợp giải cứu, bảo vệ công dân Việt Nam khỏi nước sở tại. Điển hình, năm 2011 và năm 2014, sơ tán người lao động ở Libya; tổ chức gần 600 chuyến bay giải cứu hơn 130.000 công dân và người lao động từ hơn 60 quốc gia, vùng lãnh thổ về nước do dịch COVID-19 năm 2021. Hay năm 2022 đã giải cứu hơn 1.000 lao động Việt Nam làm việc tại Căm-pu-chia và mới đây nhất, đã đưa gần 800 công dân Việt Nam, trong đó có nhiều người dân LĐDT về nước từ Mi-an-ma trước tình hình nguy hiểm đe dọa đến tính mạng và an toàn của công dân.

Bộ Chỉ huy BĐBP Tây Ninh đã tổ chức tiếp nhận 92 công dân Việt Nam, trong đó có 71 người trong vụ hàng chục người Việt tháo chạy khỏi casino ở Căm-pu-chia.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay công tác BHCD đối với người LĐDT còn gặp khó khăn do phần lớn lao động di cư ở nông thôn, với trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế, khó kiểm soát khi lao động tự do; chưa có cơ chế phối hợp chặt chẽ và qui định trách nhiệm giữa cơ quan chức năng trong nước với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; cơ chế phối hợp của Việt Nam với các quốc gia sở tại vẫn đang là một khâu yếu, nhất là tại những địa bàn chưa có cơ quan đại diện ngoại giao. Chẳng hạn tại các nước chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp với nước ta, công dân Việt Nam sẽ phải làm thủ tục hợp pháp hóa nếu muốn sử dụng các giấy tờ pháp lý do các cơ quan của Việt Nam cấp; phải nộp tiền tạm ứng án phí khi bị khởi kiện tại tòa án, mà bản án, quyết định của tòa án nước ngoài lại không được công nhận, thi hành tại Việt Nam.

Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân

Trước những khó khăn, thách thức đó, cần triển khai công tác BHCD đối với người LĐDT Việt Nam ở nước ngoài theo hướng:

Thứ nhất, cần kết chặt chẽ giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế và pháp luật nước sở tại. Tiếp tục tăng cường cơ quan đại diện, hạn chế cơ quan đại diện kiêm nhiệm, đặc biệt tại các địa bàn có đông người lao động Việt Nam làm việc và cư trú để kịp thời nắm bắt tình hình, thực hiện các biện pháp, công tác bảo hộ người LDDT Việt Nam ở nước ngoài.

Có cơ chế phối hợp thường xuyên và định kỳ giữa các cơ quan chức năng, trước hết là giữa Bộ Ngoại giao với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công an, Bộ Tư pháp… để thống nhất cách thức BHCD.

Chú trọng xây dựng, thực hiện công tác phối hợp giữa nước ta với quốc gia tiếp nhận người lao động thông qua các hiệp định song phương, đa phương về xuất khẩu lao động. Trên cơ sở đó tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc BHCD đi làm việc ở nước ngoài khi gặp khó khăn; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống di cư bất hợp pháp; tăng cường hợp tác, hỗ trợ của các tổ chức quốc tế cũng như của cơ quan chức năng quốc gia sở tại.

Thứ hai, xác định nội dung BHCD gồm: (1) Hỗ trợ việc làm, đời sống và bảo vệ người LĐDT khỏi sự phân biệt đối xử và ngược đãi; (2) Xác lập và bảo vệ các quyền của người lao động di trú về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và nhóm quyền đặc thù (nhân công vùng biên, theo mùa, đi biển,...); (3) Ngăn chặn tình trạng buôn bán người nhập cư  theo Nghị định thư về chống buôn bán người nhập cư bằng đường biển, đường bộ và đường hàng không được bổ sung trong Công ước của Liên hiệp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia thông qua ngày 15-11-2020.

Thứ ba, xây dựng chiến lược, chính sách quốc gia và khuôn khổ pháp luật có sự liên kết trong hợp tác quốc tế về lao động nói chung và người LĐDT nói riêng, gắn với định hướng, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, công tác ngoại giao kinh tế, quan hệ đối ngoại để thực hiện tốt Nghị quyết số 225/NQ-CP ngày 31-12-2023 của Chính phủ.

Trên định hướng đó, cần thực hiện các biện pháp cụ thể như:

Xây dựng Trung tâm xử lý khủng hoảng trực thuộc Bộ Ngoại giao với bộ phận chuyên trách hoặc kiêm nhiệm để xây dựng kế hoạch quốc gia về xử lý khủng hoảng. Khi có tình huống khủng hoảng xảy ra, Trung tâm sẽ vận hành quy trình xử lý tình huống khủng hoảng; tổ chức trực 24/7 để tiếp nhận, đề xuất, xử lý các thông tin liên quan. Bên cạnh đó, Trung tâm sẽ xây dựng bộ tài liệu tập huấn cho công tác BHCD trong tình huống khủng hoảng; thống nhất quy trình xử lý khủng hoảng ở các cấp độ khác nhau. Trong trường hợp cần thiết, cần nghiên cứu lập các văn phòng lưu động để giải quyết các công việc lãnh sự tại các nước lân cận thuộc khu vực lãnh sự, kịp thời HTCD khi cần thiết. Ngoài ra, cần tăng cường thiết lập sự hợp tác chặt chẽ giữa Việt Nam với các quốc gia có người LĐDT Việt Nam.

Có chế tài nghiêm khắc, cụ thể đối với các doanh nghiệp, chủ cơ sở lao động có hành vi vi phạm pháp luật lao động xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của người LĐDT tự do theo các tiêu chuẩn, Công ước quốc tế về lao động, quyền con người, nhất là khi mang tính nhạy cảm giới ở những nước gửi và nhận lao động Việt Nam.

Cung cấp thông tin về các quyền lao động và quyền con người cho người LĐDT và hỗ trợ họ thực hiện các quyền này nhằm hỗ trợ BHCD và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài; tập huấn về quyền con người cho tất cả các quan chức chính phủ và phi chính phủ có liên quan đến vấn đề di cư lao động; chống buôn bán người, nhất là phụ nữ, trẻ em; hỗ trợ người lao động trong tất cả các giai đoạn di cư thông qua việc cung cấp thông tin, tập huấn và dạy tiếng cho họ; phê chuẩn và thực hiện đầy đủ các văn bản pháp luật quốc tế về người LĐDT...

Đảm bảo tài chính để thực thi chính sách về ASXH là vấn đề rất quan trọng. Các mục tiêu và chỉ tiêu ASXH như giảm nghèo, việc làm và dạy nghề, cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu, bảo hiểm xã hội (BHXH) và trợ giúp xã hội có thực hiện được hay không, thực hiện ở mức cao hay thấp, phụ thuộc vào nguồn tài chính đầu tư có được đảm bảo hay không. Trong điều kiện kinh tế thị trường, nguồn tài chính thực thi chính sách ASXH rất đa dạng, với nhiều nguồn: ngân sách nhà nước (NSNN), tín dụng, nước ngoài, vốn từ người dân, từ các quỹ thiện nguyện…, tuy nhiên nguồn tài chính từ NSNN vẫn đóng vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là quyết định. Trong thời gian qua, nhằm thực hiện các mục tiêu ASXH, Nhà nước đã triển khai nhiều biện pháp huy động nguồn tài chính cho ASXH, góp phần đảm bảo thực hiện các mục tiêu an sinh về phòng ngừa rủi ro (giảm nghèo, việc làm và cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản), giảm thiểu rủi ro (BHXH, bảo hiểm tự nguyện - BHTN, bảo hiểm y tế - BHYT) và khắc phục rủi ro (trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất). Tuy nhiên, việc huy động và sử dụng nguồn tài chính cho ASXH hiện vẫn còn có những bất cập.

Nguồn tài chính thực thi chính sách về ASXH hiện nay

Nguồn tài chính thực thi chính sách về ASXH ở đây xét trên 3 tiêu chí cụ thể:

Tài chính thực hiện chức năng phòng ngừa rủi ro của ASXH: theo báo cáo của Chính phủ [1], trong giai đoạn 2011-2015, nguồn tài chính thực hiện các mục tiêu quốc gia (MTQG) giảm nghèo bền vững, việc làm và dạy nghề, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, y tế và đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo (chưa kể các nguồn tài chính cho ASXH từ các chương trình MTQG về giáo dục, về biến đổi khí hậu….) là 89.945 tỷ đồng, bình quân là 17.989 tỷ đồng/năm. Trong đó, từ NSNN là 46.972 tỷ đồng (chiếm 52%), từ ngân sách của các địa phương là 8.419 tỷ đồng (chiếm 9,36%), vốn nước ngoài là 8.863 tỷ đồng (chiếm 9,85%), vốn tín dụng là 22.566 tỷ đồng (chiếm 25,08%), các nguồn vốn khác là 3.125 tỷ đồng (chiếm 3,49%).

Nguồn tài chính thực hiện ASXH còn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng như: hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi, xã biên giới, xã an toàn khu; các thôn, bản đặc biệt khó khăn. Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn này còn hướng vào hỗ trợ sản xuất, tăng thu nhập, đa dạng hóa sinh kế, giảm nghèo dựa vào cộng đồng, nhân rộng mô hình giảm nghèo bền vững; hỗ trợ cho lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài...

Nguồn tài chính từ NSNN đầu tư cho mục tiêu giảm nghèo bền vững, việc làm và dạy nghề giai đoạn 2016-2018 là từ 8.038-8.541 tỷ đồng. Nếu so với tài chính cho giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2011-2015 (bình quân khoảng 9.055,8 tỷ đồng/năm) thì từ 2016-2018 tài chính dành cho giảm nghèo bền vững và chương trình việc làm và dạy nghề là thấp hơn (bảng 1). Đặc biệt, tài chính cho chương trình MTQG giảm nghèo bền vững 3 năm 2016-2018 hoàn toàn đều từ nguồn NSNN nên những khó khăn về ngân sách đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc cân đối, bố trí nguồn lực đối với chương trình giảm nghèo. Việc phân bổ nguồn lực từ NSNN, huy động nguồn lực cho giảm nghèo, giải quyết việc làm, cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu theo phương thức đa dạng hóa các nguồn lực và áp dụng phương châm phát huy nội lực là chủ yếu.

Bảng 1. Kinh phí thực hiện các chương trình mục tiêu phòng ngừa rủi ro giai đoạn 2016-2018.

Chi các mục tiêu giảm nghèo và việc làm

- Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững

-  Chương trình MTQG việc làm và dạy nghề

Nguồn: Tổng hợp số liệu của Đề tài KX01.24/16-20 [2].

Tài chính thực hiện mục tiêu giảm thiểu rủi ro của ASXH (BHXH, BHYT): đối với BHXH, nhìn chung giai đoạn 2011-2018 thực hiện chi BHXH hầu như vượt kế hoạch đề ra, trong đó nguồn tài chính từ NSNN chi BHXH có xu hướng giảm (35,34% giai đoạn 2011-2015 giảm còn 27,27% năm 2016, 25,13% năm 2017 và 22,70% năm 2018), tương ứng tỷ lệ chi BHXH từ quỹ ngày càng tăng. Đối với BHYT, trong giai đoạn này, thực hiện chi BHYT liên tục tăng lên từ 84,30% giai đoạn 2011-2015 lên 94,52% năm 2016, 97,8% năm 2017 và 100,0% năm 2018 (bảng 2).

Bảng 2. Tài chính cho BHXH và BHYT.

Nguồn: Tổng hợp số liệu của Đề tài KX01.24/16-20  [2].

Việc chi BHYT liên tục tăng là kết quả thực hiện chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về y tế thông qua thay đổi cơ chế hỗ trợ của Nhà nước cho khám chữa bệnh, từng bước chuyển chi ngân sách cho các bệnh viện sang hỗ trợ trực tiếp cho người dân, huy động người dân tham gia BHYT. Đồng thời, việc sửa đổi Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng đã tạo điều kiện mở rộng diện người có công và thân nhân của họ được cấp BHYT. Đối tượng là người dân sống ở các vùng đảo xa, khó khăn, đối tượng mới thoát nghèo, hộ cận nghèo sống tại các huyện nghèo cũng được Nhà nước mua BHYT. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực này, theo BHXH Việt Nam, nếu không có chính sách, biện pháp về thu chi thì từ năm 2037 trở đi Quỹ BHXH sẽ mất cân đối, thu sẽ không đủ chi.

Về tài chính thực thi chính sách về khắc phục rủi ro (trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất) của ASXH: theo số liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, giai đoạn 2013-2015, NSNN đã bố trí 33.836 tỷ đồng chi trợ giúp xã hội thường xuyên (bình quân gần 11.280 tỷ đồng mỗi năm) và giai đoạn 2016-2018 là 47.268 tỷ đồng (năm 2016 là 15.293 tỷ đồng, 2017: 15.752 tỷ đồng và 2018: 16.223 tỷ đồng); trong đó chi cho thực hiện chính sách trợ giúp đối với người cao tuổi các năm 2016, 2017 và 2018  tương ứng là 5.511 tỷ đồng; 5.677 tỷ đồng và 5.847 tỷ đồng/năm. Như vậy, số tiền trợ giúp thường xuyên có xu hướng tăng lên. Hơn nữa, bình quân kinh phí cho việc thực hiện chính sách trợ giúp thường xuyên đối với người cao tuổi chiếm khoảng 36% tổng chi ngân sách hàng năm cho thực hiện chính sách trợ giúp đối với các đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội.

Thêm vào đó, nếu như từ 2011-2015, NSNN chi cho trợ cấp xã hội đột xuất tính ra tiền là 2.689 tỷ đồng, bình quân gần 538 tỷ/năm, thì trong 3 năm (2016-2018), con số này là 730 tỷ đồng (năm 2016), 3.210 tỷ đồng (năm 2017) và 1.480 tỷ đồng (2018); tăng đáng kể so với giai đoạn trước đó. Tuy nhiên, chi trợ giúp xã hội thường xuyên của Việt Nam vẫn còn thấp nếu so với một số quốc gia có thu nhập trung bình khác. Ví dụ như Nam Phi và Braxin đều chi khoảng 3% GDP vào trợ giúp xã hội [3]. Thực tế thì mức chi của Việt Nam còn thấp, hiện khoảng 0,14% GDP, thấp hơn một số quốc gia thu nhập thấp ở châu Á, như Nêpan và Bănglađét, chi khoảng 0,6-0,8% GDP vào trợ giúp xã hội [3]. Tất nhiên cũng có các quốc gia châu Á khác chi thấp hơn Việt Nam như: Inđônêxia, Cămpuchia và Lào. Tuy nhiên, các nước này được coi là có cam kết ở mức tối thiểu đối với trợ giúp xã hội. Hiện một số chính sách, chương trình lớn nhất của Việt Nam như lương hưu xã hội hay trợ cấp người cao tuổi (gồm trợ cấp cho nhóm trên 80 tuổi và nhóm từ 60-79 tuổi) cũng thấp hơn so với quốc tế, do mức trợ cấp thấp và mới chủ yếu tập trung hỗ trợ nhóm cao tuổi nhất.

Qua các phân tích nêu trên, để hoàn thiện nguồn tài chính thực thi chính sách về ASXH thời gian tới, xin có một số đề xuất sau:

Đối với nguồn tài chính phục vụ phòng ngừa rủi ro

Trong ban hành chính sách, chương trình cần có sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa chỉ tiêu với nguồn lực tài chính. Trong điều kiện NSNN khó khăn, việc xác định các chỉ tiêu đảm bảo phòng ngừa rủi ro ASXH cần cân nhắc đến các điều kiện đảm bảo nguồn lực, trước hết là nguồn tài chính của Nhà nước và bố trí kịp thời nguồn tài chính thực hiện theo tiến độ đề ra. Bên cạnh nguồn ngân sách từ Trung ương, cần tăng cường huy động nguồn ngân sách địa phương, các nguồn tài chính ngoài ngân sách như nguồn tín dụng, nguồn vốn nước ngoài, nguồn hỗ trợ, đóng góp của người dân. Điều này đòi hỏi sự chủ động của chính quyền địa phương tham gia vào các chương trình. Các địa phương và các cơ quan khi ban hành chính sách cần tăng cường trách nhiệm trong việc lồng ghép nguồn lực cho chính sách giảm nghèo và cung ứng dịch vụ cơ bản tối thiểu; đồng thời tăng cường phối hợp liên ngành vào quá trình thực hiện chính sách; nâng cao năng lực quản lý nguồn lực tài chính cho các mục tiêu phòng ngừa rủi ro ASXH, như làm tốt công tác thống kê, tổng hợp đầy đủ các nguồn đóng góp, giảm thiểu các thủ tục hành chính trong bố trí nguồn vốn nhằm đảm bảo kịp thời và tạo sự chủ động cho các địa phương…

Đối với tài chính nhằm giảm thiểu rủi ro ASXH

Đối với quỹ BHXH, BHTN: việc tăng tính bền vững của Quỹ BHXH có ý nghĩa quyết định đối với nguồn tài chính BHXH. Trong đó cần đặc biệt chú ý đến việc tăng cường trách nhiệm của cơ quan BHXH trong quản lý Quỹ. Đối với BHYT: để đảm bảo cân đối giữa thu và chi Quỹ BHYT, cần nghiên cứu giải quyết các vấn đề: quan hệ giữa mức đóng và quyền lợi, mức hưởng; các quy định về phương thức và cơ chế thanh toán, thực hiện xã hội hóa trong các cơ sở y tế công lập. Đặc biệt, cần tập trung giải quyết một số bất cập tại các bệnh viện như vướng mắc trong việc tạm ứng và thanh quyết toán chi phí khám chữa bệnh BHYT; vấn đề chỉ định sử dụng thuốc bổ trợ, dịch vụ kỹ thuật, vật y tế, dịch vụ kỹ thuật y học cổ truyền trong phục hồi chức năng; việc đấu thầu thuốc; sự phối hợp giữa Bộ Y tế với BHXH Việt Nam và các bộ, ngành có liên quan trong sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến danh mục, điều kiện, tỷ lệ thanh toán, mức thanh toán đối với các dịch vụ kỹ thuật, thuốc, vật tư y tế. Bên cạnh đó, đảm bảo ổn định nguồn thu Quỹ BHYT và phối hợp chặt chẽ giữa khám chữa bệnh và thanh toán BHYT; các thông tin hướng dẫn liên quan tới khám chữa bệnh BHYT kịp thời nhằm đảm bảo thống nhất trong toàn quốc.

Đối với tài chính để khắc phục rủi ro

Xuất phát từ thực tế nguồn tài chính đảm bảo trợ giúp xã hội hiện nay, những năm tới cần xem xét tăng mức đầu tư trợ giúp xã hội thường xuyên từ NSNN để tiến tới tương xứng với các quốc gia thu nhập trung bình, trước mắt phấn đấu trong vòng 5 năm tới mức đầu tư cần tăng 0,6-0,8% GDP, tương đương các quốc gia thu nhập thấp như Nêpan và Bănglađét [3]. Theo đó, cần chú ý nâng mức trợ cấp cho các đối tượng thuộc các chính sách, chương trình lớn nhất của Việt Nam như lương hưu xã hội hay trợ cấp người cao tuổi.

[1] Chính phủ (2015), Báo cáo Đánh giá kết quả thực hiện các chương trình MTQG giai đoạn 2011-2015 và định hướng xây dựng các chương trình MTQG giai đoạn 2016-2020, số 507/BC-CP, Hà Nội ngày 13/10/2015.

[2] Báo cáo tổng hợp Đề tài KX01.24/16-20 thuộc Chương trình KH&CN trọng điểm cấp nhà nước mã số KX01/16-20.

[3] Stephen Kidd và các tác giả (2016), Tổng quan và đề xuất đổi mới hệ thống trợ giúp xã hội Việt Nam, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và UNDP.